1. Chứng nhận giáo dục chương trình học tập ở Mỹ

Chứng nhận giáo dục (educational accreditation) là một quy trình chứng nhận chất lượng dành cho các cơ quan giáo dục (chủ yếu là các trường học) được tiến hành bởi một đơn vị độc lập để kiểm tra xem cơ quan giáo dục đó có đạt các tiêu chuẩn do đơn vị độc lập này đề ra hay không. Ở hầu hết các nước trên thế giới, việc chứng nhận giáo dục được thực hiện bởi các cơ quan trực thuộc chính phủ, ví dụ như Bộ Giáo Dục. Tuy nhiên, ở Mỹ, chứng nhận giáo dục tồn tại độc lập với chính phủ và được thực hiện bởi các tổ chức phi lợi nhuận tư nhân. Chính phủ có vai trò hạn chế trong chứng nhận giáo dục bậc đại học ở Mỹ. Các trách nhiệm của chính phủ chỉ bao gồm công nhận các đơn vị chứng nhận giáo dục đáng tin và công bố danh sách các đơn vị chứng nhận giáo dục đã được công nhận. Chính phủ không chứng nhận giáo dục cho bất kì một cơ quan giáo dục hoặc một trường học nào.

Các đơn vị chứng nhận giáo dục thường được chia ra thành đơn vị chứng nhận cho các cơ quan giáo dục trong khu vực (regional accreditation) và cho các cơ quan giáo dục trong cả nước (national accreditation). Nhìn chung tiêu chuẩn của các đơn vị chứng nhận cả nước thấp hơn của các đơn vị chứng nhận khu vực, vì thế chứng nhận khu vực thường được coi là tiêu chí đánh giá tốt hơn chứng nhận cả nước. Tuy nhiên, cả hai loại chứng nhận này đều rất quan trọng trong việc xác định chất lượng của các trường đại học, đặc biệt là các trường không nằm trong top 100 NU/LAC của bảng xếp hạng US News. Cách tốt nhất để biết một trường có được chứng nhận giáo dục hay không là tìm tên trường trong cơ sở dữ liệu các trường được chứng nhận tại http://www.chea.org/search/default.asp. Nếu trường bạn đang tìm hiểu không xuất hiện trong cơ sở dữ liệu trên thì bạn không nên nộp đơn vào trường đấy.

Tổng quan chương trình giáo dục bậc đại học du học Mỹ

Tổng quan chương trình giáo dục bậc đại học du học Mỹ

2. Thời gian học sinh viên du học Mỹ cần lưu ý

Một năm học ở đại học Mỹ thường bắt đầu vào đầu tháng 9 và kết thúc vào đầu hoặc giữa tháng 5. Một số trường có đợt nhập học vào mùa xuân (spring enrollment), tức là năm học đầu tiên sẽ bắt đầu vào đầu tháng 1 và kết thúc vào tháng 8. còn các năm tiếp theo vẫn bắt đầu vào đầu tháng 9. Tổng thời gian học tập trong cả năm học trung bình là 30 tuần.

Nhìn chung, có 4 kì nghỉ trong một năm học:

  • Fall Break (Kì nghỉ Thu) kéo dài từ 4 ngày – 1 tuần trong tháng 10.
  • Thanksgiving Holiday (Lễ Tạ Ơn) kéo dài 5 ngày vào cuối tháng 11.
  • Christmas & Winter Break (Giáng sinh và Kì nghỉ Đông) kéo dài 4-5 tuần, bắt đầu từ giữa tháng 12 và kết thúc vào giữa tháng 1.
  • Spring Break (Kì nghỉ Xuân) kéo dài khoảng 1 – 2 tuần trong tháng 3.

Có ba hệ thống học kì khác nhau được sử dụng ở các đại học Mỹ:

  • Hệ thống semester chia năm học thành 2 học kì, mỗi học kì kéo dài khoảng 15 tuần, tức là 4-5 tháng. Học kì đầu tiên kéo dài từ đầu tháng 9 đến cuối tháng 12 (học kì thu/fall semester), và học kì thứ hai kéo dài từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 5 (học kì xuân/spring semester).
  • Hệ thống quarter có hai dạng. Một dạng quarter chia năm học thành 3 học kì, mỗi học kì kéo dài khoảng 10 tuần, tức là 3 tháng. Học kì đầu tiên kéo dài từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 12 (học kì thu/fall semester), học kì thứ hai kéo dài từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 3 (học kì đông/winter semester), và học kì thứ ba kéo dài từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 6 (học kì xuân/spring semester). Mặc dù một năm học chỉ có ba học kì nhưng hệ thống này được gọi là quarter (một phần bốn) vì các trường theo hệ thống này thường có thêm một học kì không bắt buộc vào mùa hè kéo dài từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 8, dành cho các sinh viên có nhu cầu học thêm trong hè. Một dạng quarter khác chia năm thành 4 học kì, mỗi học kì kéo dài 7 tuần, tức là 2 tháng.
  • Hệ thống 4-1-4 là một biến thể của hệ thống semester. Trong hệ thống này, học kì đầu tiên kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, học kì 1 tháng kéo dài trong tháng 1, và học kì thứ hai kéo dài từ tháng 2 đến tháng 5. Trong học kì 1 tháng, sinh viên có thể tự chọn hoạt động cho bản thân, ví dụ như nghiên cứu độc lập, học ở nước ngoài, hay thực tập. Một số trường có hệ thống 4-4-1, trong đó học kì đầu tiên kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, học kì thứ hai kéo dài từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 4, và học kì 1 tháng kéo dài từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 5.
  • Hệ thống trimester không phải là một hệ thống riêng biệt với hệ thống semester hoặc hệ thống quarter. Vì tiền tố tri có nghĩa là 3 nên tên gọi trimester thường được dùng để chỉ hệ thống semester có thêm học kì hè hoặc để chỉ hệ thống quarter do một năm học chính thức của hệ thống quarter chỉ có 3 học kì.

3. Môn học

Môn học, còn được gọi là lớp học, là một đơn vị cơ bản trong chương trình học ở đại học Mỹ, kéo dài trong một học kì và có số lượng học sinh tương đối cố định. Một môn học được giảng dạy thông qua những tiết học có thời lượng khoảng 50 – 75 phút/tiết trong tuần, theo một lịch cố định.

Môn học có thể được giảng dạy theo một trong các hình thức sau hoặc kết hợp nhiều hình thức với nhau:

  • Lecture là hình thức mà giáo viên trình bày thông tin cho một số lượng lớn học sinh trong một phòng lớn, với ít tương tác hai chiều giữa giáo viên và học sinh.
  • Seminar là hình thức mà giáo viên hoặc hướng dẫn viên cùng một nhóm nhỏ học sinh (10-20) thảo luận và nhận xét về những vấn đề trong bài học hoặc những vấn đề chuyên sâu, mở rộng hơn trong chương trình học.
  • Tutorial là hình thức mà hướng dẫn viên làm việc với một hoặc một vài học sinh để hướng dẫn hoặc định hướng về một vấn đề cụ thể trong chương trình học.
  • Directed Individual Study là hình thức mà du học sinh tự làm việc và nghiên cứu trong mảng kiến thức chuyên sâu hơn kiến thức của một khóa học thông thường hoặc mảng kiến thức không được dạy ở trường, dưới sự giám sát và hướng dẫn của giáo viên/hướng dẫn viên.
  • Laboratory là hình thức mà giáo viên và học sinh làm việc trong phòng thí nghiệm.

Học sinh được tự chọn môn học cho mỗi học kì. Số môn học trong mỗi học kì phụ thuộc vào số tín chỉ của từng môn học và quy định về tín chỉ của trường. Tín chỉ (credit, hoặc credit hour) là đơn vị đo số giờ học của môn học trong một tuần. Số tín chỉ của một môn học bằng với số giờ học của môn học đó trong một tuần. Số tín chỉ không phải là số buổi học một tuần, vì một buổi học có thể kéo dài nhiều hơn 1 giờ. Phần lớn các môn học có 3-5 tín chỉ. Nhìn chung một học sinh học 4-5 môn học trong một học kì. Tổng số môn học một học sinh trải qua trong thời gian học đại học là 30-36.

4. Chương trình học

Học sinh không bắt buộc phải chọn ngành khi điền đơn xin học, và ngay cả khi học sinh có chọn ngành trong đơn xin học, học sinh không bắt buộc phải học ngành đó khi nhập học. Khi học ở đại học Mỹ, học sinh cũng không bắt buộc phải chọn ngành học và đăng kí ngành học ngay khi nhập học hoặc trong học kì đầu tiên. Trong hai năm đầu, học sinh có thể chỉ học các môn học trong chương trình học đại cương hoặc học song song các môn trong chương trình này và những môn học liên quan đến chuyên ngành học sinh dự định theo học.

Chương trình học đại cương (General Education) là chương trình học được áp dụng ở phần lớn các đại học Mỹ. Chương trình này quy định học sinh phải học một số môn học ở các lĩnh vực khác nhau. Các môn học này thường là các môn về viết, ngôn ngữ, nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, toán, và khoa học tự nhiên. Mục đích của chương trình này là phát triển con người toàn diện, phát triển khả năng đánh giá và phân tích vấn đề từ nhiều khía cạnh, và giúp học sinh tìm được lĩnh vực và ngành học phù hợp với bản thân. Chương trình này còn được gọi là liberal arts education. Cụm từ “liberal arts” trong văn phạm cổ điển nói đến 7 lĩnh vực mà người phương Tây cổ đại tin rằng là cần thiết cho sự phát triển và sự tham gia vào hoạt động xã hội của một công dân. 7 lĩnh vực này là ngữ pháp, logic, hùng biện, đại số, hình học, âm nhạc, thiên văn học. Chữ “arts” trong cụm từ này không nói đến các lĩnh vực nghệ thuật như trong văn phạm hiện đại, mà nói đến các lĩnh vực kiến thức nói chung.

Chương trình học đại cương được áp dụng theo hai cách:

  • Core curriculum là cách áp dụng mà trong đó trường quy định cụ thể các môn học học sinh phải hoàn thành.
  • Distribution requirement là cách áp dụng mà trong đó trường không quy định cụ thể các môn học, mà chỉ đưa ra những điều kiện về lĩnh vực và số môn hoặc số tín chỉ trong từng lĩnh vực, và học sinh được tự chọn môn học, miễn là các môn học đó thỏa mãn những điều kiện được đưa ra.

Học sinh không bắt buộc phải hoàn thành chương trình đại cương trong 2 năm đầu Đại học. Thay vào đó, học sinh có thể học song song các môn đại cương với môn yêu cầu của chuyên ngành, và hoàn thành số tín chỉ yêu cầu để tốt nghiệp.

Hạn chót để học sinh đăng kí ngành học là cuối năm hai. Ngay cả sau khi đã đăng kí ngành học, học sinh vẫn có thể chuyển sang ngành học khác.

Có hai loại chuyên ngành, đó là chuyên ngành chính (major) và chuyên ngành phụ (minor). Sự khác biệt duy nhất giữa hai loại chuyên ngành này là số môn học trong chuyên ngành. Số môn học trong chuyên ngành chính nhiều hơn trong chuyên ngành phụ. Học sinh bắt buộc phải đăng kí ít nhất 1 chuyên ngành chính. Ngoài ra, học sinh có thể theo đuổi 2 chuyên ngành chính, hoặc 1 chuyên ngành chính và 1-2 chuyên ngành phụ cùng 1 lúc. Những chuyên ngành này không bắt buộc phải liên quan đến nhau, vì phần lớn các trường đại học Mỹ là những trường đại học đa ngành, nói cách khác là đào tạo nhiều chuyên ngành thuộc các nhóm ngành khác nhau. Ví dụ, học sinh có thể vừa học chuyên ngành tài chính (Finance) để chuẩn bị cho công việc có thu nhập ổn định trong lĩnh vực này sau khi tốt nghiệp và vừa học chuyên ngành kịch nghệ thuật (Theater) để thỏa mãn niềm đam mê được đứng trên sân khấu.

Một số trường ở Mỹ cho phép học sinh tự đề cử và thiết kế chuyên ngành riêng nếu chuyên ngành này không có trong danh mục các khóa học của trường. Ví dụ, Babson College là một trường chuyên về những ngành kinh doanh (Business), nên các môn nghệ thuật hoặc xã hội học của trường cũng có phần hạn chế. Nếu học sinh muốn học về chuyên ngành về viết báo (Journalism), học sinh có thể nói chuyện trực tiếp với giáo sư hoặc các chuyên viên phụ trách các khóa học của trường để được tư vấn về việc tạo 1 chuyên ngành riêng. Các chuyên gia này sẽ theo dõi học sinh trong quá trình học tập để đảm bảo bạn giữ tiến độ và học được những kiến thức cần thiết cho chuyên ngành.

Các đại học Mỹ nhìn chung không có các chuyên ngành hoặc các chương trình đào tạo liên quan đến ngành y (pre-med) hoặc ngành luật (pre-law). Các trường cao học về y dược và luật cũng không yêu cầu học sinh nộp đơn đầu vào phải học những chuyên ngành cụ thể nào để được nộp đơn, và cũng không tuyển sinh học sinh từ những chuyên ngành cụ thể nào. Trên thực tế, những học sinh có định hướng theo học trường cao học về y dược thường theo học các ngành liên quan đến sinh học, hóa học, hoặc hóa sinh, nhưng không chỉ có những học sinh học các ngành này được nhận vào các trường cao học y dược. Tương tự, những học sinh có định hướng theo học trường cao học về y dược thường học các ngành liên quan đến chính trị, kinh tế, lịch sử, hoặc triết học, nhưng không chỉ có những học sinh học các ngành này được nhận vào các trường cao học luật.

5. Tốt nghiệp

Thông thường, các sinh viên hoàn thành chương trình Đại học trong 4 năm. Tuy nhiên, có những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp sau từ 3 – 3.5 năm học, và cũng có những sinh viên cần nhiều thời gian hơn để hoàn thành chương trình học của mình. Đa số các trường Đại học không yêu cầu về số năm học tối đa để tốt nghiệp của sinh viên, mà đặt ra yêu cầu về số lượng tín chỉ và môn học sinh viên cần có để tốt nghiệp.

Phần lớn các trường đại học cấp 2 loại bằng tốt nghiệp cử nhân: Bachelor of Arts và Bachelor of Sciences. Tên loại bằng không liên quan đến ngành học của bạn. Nói cách khác, chữ “Arts” và “Sciences” không được dùng theo nghĩa đen. Bạn vẫn có thể học các ngành khoa học tự nhiên và tốt nghiệp với bằng Bachelor of Arts, và bạn vẫn có thể học các ngành khoa học xã hội hoặc nhân văn và tốt nghiệp với bằng Bachelor of Sciences. Có những trường đại học chỉ cấp một trong hai loại bằng trên cho tất cả các ngành học, dù là ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội và nhân văn. Ví dụ, trường đại học Princeton cấp bằng Bachelor of Arts cho học sinh thuộc tất cả các ngành. Sự khác nhau duy nhất giữa hai loại bằng này nằm ở số tín chỉ hoặc số môn học trong chuyên ngành chính (major) mà bạn hoàn thành. Ở phần lớn các trường, nếu bạn hoàn thành 120 tín chỉ cho các môn học chuyên ngành chính, bạn sẽ được cấp bằng Bachelor of Arts, và nếu bạn hoàn thành 150 tín chỉ cho các môn học chuyên ngành chính, bạn sẽ được cấp bằng Bachelor of Sciences.

Một số trường đại học khác còn có các bằng tốt nghiệp cử nhân riêng cho từng loại chuyên ngành, ví dụ như Bachelor of Musical Performance hoặc Bachelor of Architecture.

Lưu ý: Bài viết không đề cập đến tất cả các khía cạnh liên quan đến việc học ở các đại học Mỹ, mà chỉ đề cập những khía cạnh cơ bản.

Bạn đọc quan tâm tới các trường ĐH tại Mỹ, học bổng du học Mỹ, visa du hoc My có thể để lại thông tin tại phần hỏi đáp bên dưới để được cập nhật thêm thông tin hoặc bạn cũng có thể liên hệ trực tiếp với các công ty tư vấn du học uy tín - là đối tác của Kenhtuyensinh.vn để được cập nhật thông tin và tư vấn miễn phí.