1. ĐỊNH NGHĨA
Ý kiến tiêu cực và khắt khe của người khác có thể làm bạn đánh mất lòng tự tin.
Thông thường lời chỉ trích từ ngòai, kết hợp với tiếng nói bên trong, đã có mặt từ những tuổi thời thơ ấu xa xưa… làm bạn không còn có phương tiện, để phản ứng một cách đứng đắn và đối đáp một cách hữu hiệu.
Trong thực tế, không có gì có thể phá vỡ lòng tự tin của chúng ta, nếu chúng ta biết hóa giải , nghĩa là tìm cách trả lời .
2. THỰC TẠI VÀ KHÁCH QUAN: HUYỀN THỌAI ?
Thực tại bên ngòai đi vào nội tâm, qua 5 cánh cửa giác quan: Thị, Thính, Xúc, Khứu và Vị. Đồng thời, đó cũng là năm dụng cụ để thanh lọc những sự kiện và tin tức. Như một cán bộ bảo vệ, năm giác quan không thể nào không lựa chọn, kiểm soát, thanh lọc.
Thực tại được ghi nhận trong những đường nét chính yếu, cơ hồ một bản đồ trình bày, giới thiệu một xứ sở, nhưng không thể đồng hóa với xứ sở.
Chính vì lý do đó, khi đưa ra những nhận thức về một người khác, chúng ta đã làm công việc lựa chọn, đổi thay, làm méo mó những tin tức mà chúng ta đã tiếp thu.
Khách quan và chủ quan trộn lẫn vào nhau. Thực tại khách quan 100 phần trăm chỉ là huyền thọai: đó là cái mà chúng ta luôn luôn nhắm tới, hơn là một kết quả đã thu đạt .
Trên bản đồ tâm linh, chúng ta chỉ chú trọng một cách đặc biệt đến một số chi tiết.
Nhiều chi tiết được chúng ta phóng lớn họăc thổi phồng. Nhiều tin tức khác, trái lại, được chúng ta thu hẹp và cắt xén.
Những hiện tượng tổng quát hóa, thanh lọc và xuyên tạc chủ quan là những điều rất thường tình, tạo điều kiện thuận lợi, để con người tiếp thu và học tập, ghi nhớ hoặc sáng tạo. Chính vì vậy, ghi nhận thực tại là bắt đầu tổ chức thực tại, từ đó kiến tạo một bản đồ về thực tại.
3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢN ĐỒ TÂM LÝ
3.1. Mỗi người có một bản đồ riêng biệt về thực tại. Bản đồ của tôi và bản đồ của một người khác chưa hẳn giống nhau y nguyên, mặc dù cả hai đều cùng chung trình bày và giới thiệu một thực tại duy nhất.
3.2. Bản đồ không phải là xứ sở. Điều tôi biết về một thực tại chỉ là một tấm bản đồ về thực tại ấy mà thôi. Thêm vào đó, chiếc bản đồ không thể nào gói ghém trọn vẹn tất cả mọi chi tiết hoặc tin tức về thực tại ấy.
3.3. Thay đổi một phần hay là tổng thể của bản đồ thuộc chủ quyền của tác giả tạo nên chiếc bản đồ ấy. Trong tinh thần nầy, chúng ta không bao giờ có thể quán triệt trọn vẹn chiếc bản đồ của người khác, trừ phi lúc chúng ta là ngừơi ấy hay là đồng hóa hòan tòan với người ấy.
Thông thường, nổ lực đồng hóa là cố gắng đặt mình vào vị trí của người ấy, tạm thời mượn con tim của người ấy, để yêu hay là để ghét… Hiểu biết người khác đã là một khó khăn. Thay đổi kẻ khác hay là chiếc bản đồ tâm lý của họ lại là một khó khăn lớn lao hơn.
Không ai ngoài tác giả, người đã làm nên bản đồ, có thể đóng vai trò chủ động, trong mọi nỗ lực thay đổi nội tâm. Hẳn thực, nếu là người ở ngòai, chúng ta chỉ có thể tạo điều kiện thuận lợi, nghĩa là “ ộ sinh”, giúp đỡ đương sự thực hiện công việc thay đổi trong chính bản thân mình.
3.4. Nhiều yếu tố có mặt trên một bản đồ tâm lý của một người, có thể không được chính người ấy nhận diện và đối diện. Tôi có thể không ý thức về những gì có mặt trên bản đồ tâm lý của tôi, bởi vì những yếu tố ấy đã bị vùi lấp, che kín hay là dồn nén trong vô thức của tôi.
3.5. Những gì có mặt trên một bản đồ tâm lý chưa hẳn phản ảnh một cách đích thực và hoàn toàn khách quan, những sự kiện có mặt trong xứ sở hay là thực tại.
Những cảm thức vui buồn, giận ghét, lo sợ….. hay là những điều kiện cơ thể, sinh lý như: đói bụng, mệt nhọc, bệnh họan, thiếu ăn, mất ngủ ….đều có thể tô son điểm phấn, làm méo mó các tin tức đã được thu nhận, để cấu tạo chiếc bản đồ của chúng ta .
Do đó, trước một bản đồ tâm lý, thái độ đứng đắn của chúng ta không phải là tin vô điều kiện, hay là khước từ tất cả. Trái lại, “tinh thần nghi nan có hệ thống “,
Hay là tìm kiểm chứng … là tinh thần khoa học, đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt phân biệt, cân nhắc, kiểm sóat những nguồn tin.
Những tiếng nói của nột tâm, mang ý nghĩa phê phán, chỉ trích, bình phẩm, kết án hoặc buộc tội…. đều là những tín hiệu cần được chúng ta xem xét và kiểm chứng, để tránh tình trạng bị lung lạc, và để duy trì lòng tự tin của chúng ta .
Chừng nào trong lãnh vực cảm thức, chúng ta đang có những tình trạng tiêu cực như: khổ đau, buồn chán, lo sợ… Chúng ta càng nhạy cảm hay là bị chấn động vì những lời chỉ trích và phê phán. Chúng ta dễ tin và chấp nhận “ sự thật “ của những lời kết án ấy. Chúng ta đầu hàng, phó thác cho lời nói nội tâm phê bình và chỉ trích mọi quyền hành bắt bớ và mạt sát chúng ta.
Lòng tự tin của chúng ta lúc bấy giờ, hay là ý thức về các giá trị của bản thân mình, cũng vì đó, mà bị tổn thương nặng nề …
Rốt cùng chúng ta nên sáng suốt khám phá quan hệ qua lại, ảnh hưởng hai chiều của hai yếu tố: một là lòng thiếu tự tin của chúng ta, hai là sức tàn phá của những lời bình phẩm và kết tội.
3.6. Để đối trị lời chỉ trích và phê bình của kẻ khác, chúng ta cần hiểu rõ những hiện tượng tâm lý sau đây:
– Người chỉ trích bạn không thể chỉ trích chính con người đích thực của bạn.
– Họ chỉ chỉ trích những điều có mặt trên bản đồ của họ về bạn.
– Họ có thể tự hào là họ biết rất rõ về bạn. Tuy nhiên, họ chỉ biết bạn qua tấm bản đồ của họ về bạn mà thôi.
– Chiếc bản đồ ấy không phải là bạn, và sẽ không bao giờ là bạn.
4. THỂ THỨC TRẢ LỜI
Khi nghe ai đang chỉ trích phê bình hay là đưa ra những nhận định tiêu cực về bạn, điều trước nhất phải làm là nêu lên câu hỏi sau đây:
“Cái gì đang xuất hiện trên tấm bản đồ tâm linh của người ấy? Họ đang thấy, nghe, cảm những điều nào?”
Trong các câu trả lời chúng ta cần phân biệt rõ ràng hai thể lọai khác nhau:
4.1. Cách trả lời vô hiệu
4.1.1. Bạn trả lời bằng cách tấn công trả đũa: “bên kia một lạng bên nầy nửa cân”.
Lề lối giải đáp như vậy chỉ “ thêm thù và bớt bạn”. Thực ra, cơ bản của tác phong nầy là lòng thiếu tự tin. Bạn tỏ ra là một con người rất nhạy cảm và mong manh, dễ vỡ tan thành từng mảnh vụn. Vì mong manh, bạn trở thành lo sợ, đề phòng và tự vệ .
4.1.2. Bạn trả lời bằng một tác phong bị động.
Bạn chấp nhận và đồng ý hoàn toàn với lời chỉ trích và phê phán. Nhiều lúc bạn có thái độ thinh lặng, hy vọng rằng: người phê bình sẽ rút lui có trật tự .
Trong thực tế, tuy dù bạn không ngọai hiện một phản ứng nào, nhưng bên trong nội tâm bạn cứ suy đi nghĩ lại. Tiếng nói nột tâm cứ lải nhải, làm cho bạn không yên nguôi. Lòng bạn bị nung nấu. Rốt cuộc bạn mệt mõi, bị căng thẳng dày xéo. Chính bạn trở lại tấn công bạn, một cách rất nghiêm khắc.
4.1.3. Bạn có thái độ vừa tấn công vừa thụ động.
Khi làm thinh thì lửa tình nung nấu tâm can.
Khi tấn công thì bạn có mặc cảm tội lỗi, vì đã làm một cái gì sai trái.
Rốt cuộc thay vì tấn công người khác, chính bạn đã trở nên nạn nhân của chính mình.
4.2. Cách trả lời hữu hiệu:
Xét về mặt tiêu cực, trả lời hữu hiệu có nghĩa là:
* Không đáp lại bằng cách tấn công, khi có người phê bình và chỉ trích
* Không đầu hàng hay là chấp nhận tòan bộ lời phê phán của kẻ khác.
* Không né tránh hay là có thái độ du kích như “giận cá chém thớt “.
Về mặt tích cực, câu trả lời hữu hiệu đòi hỏi những điều kiện sau đây :
* Cần tìm hiểu con người chỉ trích : họ muốn cái gì?
* Nếu có những vấn đề không rõ ràng, chúng ta cần làm sáng tỏ ở điểm nào?
* Chấp nhận khía cạnh tích cực của lời chỉ trích .
* Một cách bình tâm và thanh thản, chúng ta diễn tả sự bất đồng về những điểm thiếu cơ bản của lời chỉ trích.
Để trả lời một cách hữu hiệu chúng ta có thể sử dụng 3 kỹ thuật sau đây:
4.2.1 Đón nhận lời chỉ trích, một cách “ tùy thuận”
Ý nghĩa: Đồng ý với nội dung.
Mục tiêu: Để chấm dứt lời chỉ trích.
Nội dung: “ Vâng, trên bản đồ tâm lý của tôi, tôi cũng thấy những yếu tố như bạn thấy”.
Trường hợp: Khi lời chỉ trích có nền tảng tích cực và chính xác.
Thể thức diễn tả và phản ảnh:
* Bạn có lý,
* Phản ảnh lời chỉ trích,
* Cám ơn,
* Giải thích hành động của bạn, thay vì biện minh, bằng cách môi trường hóa, nghĩa là đặt lại các dữ kiện, ĐÚNG trong môi trường nguyên khởi .
Một vài ví dụ:
Lời chỉ trích: “Anh bày biện áo quần lung tung. Thật lộn xộn bê bối!”
Câu trả lời: “Vâng sáng nay, anh phải ra đi vội vã, để đến sở kịp 8 giờ. Anh thay quần áo, và đã bỏ sót chiếc quần bẩn trên ghế trường kỷ. Lần sau, anh sẽ ý tứ hơn sáng nay!”
Lời chỉ trích: “Bạn không được đến trể như vậy. Bây giờ là 9:15. Bạn phải chấp hành kỷ luật cách nghiêm chỉnh!”
Câu trả lời:“ Sáng nay thực sự tôi đã đến trể 15 phút. Chính lúc sọan đi làm, vợ tôi bị té xỉu. Tôi đã mất 15 phút để trông nom và nhờ người khác săn sóc hộ. Xin thủ trưởng thông cảm!”
Phương thức nầy mang lại cho ta nhiều lợi ích sau đây:
* Lấy Như đáp lại Cương!
* Dứt điểm lời chỉ trích.
* Nếu câu trả lời thiếu trung thực, lòng tự tin của ta sẽ bị tổn thương và suy giảm.
4.2.2. Phân biệt Cây và Rừng
Trường hợp sử dụng: Khi lời chỉ trích vừa không chính xác, vừa không tích cực.
Nội dung: Trên bản đồ tâm lý, tôi thấy có yếu tố A; nhưng không có yếu tố B.
Bạn chỉ đồng ý về một phần mà thôi
“ Vâng , nhưng mà …”
Cái “nhưng mà”không cần phải được diễn tả rõ ràng minh thị.
Ví dụ:
Lời chỉ trích: “ Làm sao tôi tin được vào anh! Nhờ anh đi đón con. Nhưng rồi lần nào anh cũng lãng quên !”
Câu trả lời: “ Đúng như lời em nói. Chiều nay tan sở, anh đã quên đi đón con lúc 5 giờ chiều. Về tới nhà, anh mới nhớ ra. Anh lật đật đi đón con . Tội nghiệp nó phải đợi anh hơn 30 phút.
Chỉ có chừng đó mà em đã mất niềm tin vào anh rồi à ?”
Lời chỉ trích: “ cà phê trong quán nầy thật tồi tệ. Chỉ có nước ! Tất cả đều nguội lạnh! “
Lời đáp lại
“ Nếu anh muốn, tôi xin đi lấy một tách khác nóng hơn.
Chỉ vì chừng ấy, anh đã đánh giá “tồi tệ”, tôi nghĩ là hơi quá đáng!”
4.2.3. Đồng ý trên nguyên tắc:
Bằng cách nhấn mạnh tính cách “hoàn toàn giả định hay là bấp bênh không nền tảng của lời chỉ trích .
* “Mày thật hư thân mất nết! Con gái 18 tuổi đi đêm về hôm, không giờ giấc nhất định!”
* “Vâng thưa mẹ; hồi hôm con đi về nhà lúc 11giờ khuya. Chậm mất 30 phút, theo giờ con đã xin phép mẹ”
* “Mày học hành như vậy không thể nào thi đỗ cuối năm!”
* “ Vâng có lẽ con còn thiếu tổ chức trong cách học hành.
4.2.4. Kỹ thuật môi trường hóa
Mục tiêu: Làm sáng tỏ vấn đề trên 2 bình diện ý nghĩa và nội dung cụ thể của lời phê bình
Nội dung:
* Yêu cầu cho biết những ví dụ cụ thể !
* Ngôn ngữ chính xác !
Ví dụ:
* “ Mày là một tên làm biếng !”
* Xin mẹ nói cho con biết rõ thêm: mẹ thấy con làm biếng ở chỗ nào?
* “ Mầy cứ ăn không ngồi rồi, không chịu làm việc!”
* Thưa mẹ, sáng nay mẹ muốn con làm những gì cụ thể ?
5. KẾT LUẬN
5.1. Lời phê bình có liên hệ mật thiết với lối nhìn hay là tấm bản đồ tâm lý của tác giả.
Người phê bình chỉ phê bình những gì họ thấy trên tấm bản đồ của họ chứ họ không thể thấy những gì có mặt thực sự trên bản đồ của bạn.
5.2 Bao lâu lòng tự tin của bạn vẫn nguyên vẹn, bạn sẽ có mọi khả năng đối trị và hóa giải lời phê bình của kẻ khác.
Bạn sẽ tức khắc khám phá những điều phải thấy, phải nói và phải làm.
Trước khi trả lời, điều cơ bản cần làm là tìm hiểu rốt ráo ý nghĩa và ý định của lời phê bình.
Sáng suốt và khả năng phân biệt là hai dấu hiệu của lòng tự tin
Gs. Nguyễn Văn Thành