Dành quá nhiều thời gian cho tìm hiểu, phán đoán ý nghĩa của từ vựng thay vì hiểu ý chính của câu và của đoạn để tìm ra ngay đáp án phù hợp. Làm theo thứ tự câu hỏi thay vì lựa chọn câu hỏi và đáp án phù hợp với nội dung để hoàn thành. Chỉ đọc lướt ý của câu hỏi mà không chú trọng vào nghĩa phủ định của các từ, dẫn đến việc hiểu nhầm nội dung câu hỏi. Những dạng câu hỏi này hay xuất hiện phần phủ định ở cuối câu dùng với liên từ như: but, except, excluding... hoặc cụm từ: not true, not correct, not mentioned, do(es)not refer...
Phần câu hỏi ngữ âm: Phần thi này chỉ có 5 câu nhưng lại chiếm tỷ lệ xấp xỉ 10% tổng điểm bài thi. Khi làm phần này, nếu TS không đọc bật hơi (phát thành tiếng) các từ vựng thì khó xác định được dấu trọng âm, hoặc tìm ra cách đọc khác nhau giữa các từ cho sẵn.
Chọn phương án sát nghĩa với câu cho sẵn: Phần thi này đòi hỏi kỹ năng viết câu đúng của TS, thường chiếm tỷ lệ từ 8-15% tổng điểm. Muốn làm tốt, TS cần lưu ý: phần lớn các câu cho sẵn được mặc định ở các dạng câu giao tiếp, hội thoại nên khi chuyển ý (sang dạng bị động/chủ động; câu trực tiếp/gián tiếp) thường sử dụng văn viết, do đó về cơ bản thì cấu trúc câu, chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ... cũng thay đổi theo.
Câu hỏi có sử dụng các câu trần thuật, mệnh lệnh thức, câu cầu khiến hoặc câu cảm thán khiến cho ý nghĩa của câu bị thay đổi, các động từ thường được sử dụng để thay thế như: ordered, forced, demanded, requested, suggested, warned, advised... TS cần dùng tư duy và suy luận logic để hiểu rõ định dạng câu, phân tích các mệnh đề chính, qua đó tìm ra ý nghĩa của câu, so sánh với các đáp án tương đồng phù hợp.