Gợi ý đáp án đề thi môn Văn THPT quốc gia năm 2016

Bài giải do giáo viên trường THPT Việc Úc (Hà Nội) thực hiện tại tòa soạn Zing.vn.

Phần I:

Câu 1 (0.25 điểm):

Sự mượt mà và tinh tế của Tiếng Việt được thể hiện ở những từ ngữ sau:

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ, tiếng Việt như bùn và như lụa, óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Câu 2 (0.25 điểm):

Hai biện pháp tu từ: So sánh và ẩn dụ

-  So sánh: tiếng tha thiết nói thường nghe như hát, Như gió nước không thể nào nắm bắt.

- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối.

Câu 3 (0.5 điểm):

Nội dung chính của đoạn trích:

Đoạn trích thể hiện sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt. Qua đó bày tỏ niềm tự hào của tác giả Lưu Quang Vũ về vẻ đẹp và giá trị của ngôn ngữ dân tộc.

Câu 4 (0.5 điểm):

Từ đoạn trích bày tỏ cảm nghĩ của mình về tiếng Việt:

Tiếng Việt là ngôn ngữ chính để tạo ra bản sắc riêng của dân tộc, là thành quả đáng tự hào của người Việt Nam trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước. Tiếng Việt của chúng ta mượt mà, tinh tế, giúp chúng ta không chỉ giao tiếp mà còn bày tỏ tiếng nói, tâm tư, tình cảm.

Hơn nữa, ngôn ngữ là một phần khẳng định chủ quyền độc lập của Tổ quốc ta. Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh, cha ông ta đã giữ gìn tiếng mẹ để đến hôm nay. Vì thế chúng ta cần trân trọng, phát huy cái hay và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.


Câu 5:

Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.

Câu 6:

Vẻ bề ngoài đẹp đẽ của “cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa nhà mình” thể hiện rõ nhất qua hình ảnh so sánh: “một cuộc sống nghèo nàn, giống như một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận đầy hoa thơm sạch sẽ và gọn gàng”.

Câu 7:

Tác giả cho rằng: “Số phận của những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi bản thân, chẳng có gì đáng thèm muốn” vì cuộc sống của những cá nhân như vậy sẽ nghèo nàn, nhàm chán với một hạnh phúc mong manh.

Đó là một cuộc sống thiếu khát vọng, không có sự khẳng định, dấu ấn cá nhân, chỉ an toàn trong một “mảnh vườn” sạch sẽ, gọn gàng. Cuộc sống khép kín sẽ khiến con người trì trệ, khó thích nghi khi bị giông bão tràn đến, và hơn nữa sẽ khiến ta chìm trong cô đơn, buồn phiền, chán nản.

Câu 8:

Cuộc sống của con người khi thoát ra khỏi “cái tuyệt đối cá nhân”:

- Khi thoát ra khỏi cuộc sống cá nhân êm đềm, bằng phẳng trong ngưỡng cửa nhà mình, con người sẽ vươn ra cuộc đời rộng lớn bên ngoài ngưỡng cửa. Đó là một cuộc sống nhiều thử thách, phong ba nhưng là một cuộc sống đích thực mà mỗi người cần vươn đến: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố”.

- Con người sẽ phải đối mặt với chông gai, khó khăn nhưng đó sẽ là cơ hội để con người khẳng định năng lực, bản lĩnh, khát vọng, ước mơ của mình.

- Khi được trải nghiệm, dấn thân: con người sẽ mạnh mẽ, kiên cường, dũng cảm hơn. Đó là yếu tố rất quan trọng để chạm đến thành công.

- Cuộc sống thử thách với nhiều khát vọng sẽ cho mỗi người cảm nhận được giá trị thực sự của cá nhân mình: “Hãy luôn khát khao, hãy cứ dại khờ”.

Phần II:

Câu 2:

Về hình thức: 0,5 điểm

Đảm bảo cấu trúc của bài nghị luận: có đủ ba phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Về sáng tạo: 0,5 điểm

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

Về nội dung:

Xác định đúng vấn đề nghị luận: (0,5 điểm)

Phân tích tình huống truyện của tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm sáng tỏ ý kiến: Trong truyện ngắn vợ nhặt nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tính huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người.

Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau: (2,5 điểm)

- Mở bài:

+ Giới thiệu tác giả Kim Lân, tác phẩm “Vợ nhặt”: Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là cây bút “một lòng đi về với đất với người, với thuần hậu nguyên thủy ở nông thôn Việt Nam”.

Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông

+ Giới thiệu nhận định: Trong truyện ngắn vợ nhặt nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tính huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người.

+ Giới thiệu vấn đề nghị luận: Ý kiến trên đã chỉ ra cái hay của tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt”

- Thân bài:

+ Khái quát truyện “Vợ nhặt”: “Vợ nhặt”  được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Tiền thân của truyện vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (cuốn tiểu thuyết được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo).

Hoà bình lập lại, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. “Vợ nhặt” mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kỹ lưỡng về nghệ thuật.

Với “Vợ nhặt”, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kỳ hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.

+ Giải thích ý kiến:

~ Tình huống bất thường: Là tình huống đặc biệt, mang tính nghịch cảnh, éo le, trớ trêu được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn.

~ Khát vọng bình thường: Khát vọng là những mong muốn mãnh liệt mang tính nhân bản, bản chất trong mỗi con người. Đó là quyền sống, mưu cầu hạnh phúc và được sống cho ra sống.

+ Tình huống nghệ thuật bất thường trong truyện ngắn:

~ Tình huống xuất hiện ngay từ nhan đề: Nhan đề ấn tượng sâu sắc, kích thích trí tò mò, chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm. Nhặt là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một vật gì đó thường là từ dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý hoặc không còn giá trị nên bị người ta vứt bỏ.

Vợ là một phần quan trọng của cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc lớn của đời người, một việc thường được thực hiện theo phong tục truyền thống của ng Việt với các bước mai mối, dạm hỏi, cưới xin… trang trọng.

Nhưng với từ nhặt làm định ngữ vợ nhặt đã khiến ng đọc phần nào suy đoán được giá trị của ng vợ khi được nhặt về chẳng khác nào cỏ rác; cũng đồng thời hình dung được tình cảnh của ng chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời ng lại được thực hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ và không chủ tâm như vậy.

Tóm lại, nhan đề hàm chứa sự mâu thuẫn, éo le đã góp phần thể hiện những giá trị  hiện thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm, giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của những ng nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945.

~ Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn, trớ trêu được đẩy đến tận cùng giới hạn. Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng – chủ thể của hành động nhặt vợ.

Tràng là người mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng ít có khả năng lấy được vợ - hắn là dân ngụ cư với địa vị lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi dở tính. Vậy mà Tràng lại lấy được vợ, thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn cũng không tin nổi. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hoàn cảnh nhặt vợ của Tràng.

Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy mà việc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói Ất Dậu, khi xóm ngụ cư của Tràng bao trùm không khí chết chóc lạnh lẽo.

Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa ấm áp của tình người với lạnh lẽo thê lương của chết chóc…

Tình huống trớ trêu ấy đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người dân: xóm ngụ cư thì thầm phỏng đoán, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt và tai mình; và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ, bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.

+ Giá trị của tình huống:

~ Khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn và góp phần thúc đẩy cốt truyện phát triển.

~ Giúp nhà văn phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của làng quê: cảnh xóm ngụ cư ngập tràn âm khí là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam trong nạn đói 1945.

Bề sâu của hiện thực là cái đói khiến giá trị của con người trở nên rẻ rúng, những điều đẹp đẽ thiêng liêng như hạnh phúc gia đình - một đám cưới trở nên bi hài, chua chát.

Đói khát khiến con người thay đổi và bị hủy hoại từ hình hài đến nhân cách, con người không được sống cho ra con người. Tràng và thị nên vợ nên chồng chỉ bằng một câu hò vu vơ và bốn bát bánh đúc.

~ Giá trị của tình huống truyện đặc biệt đã thể hiện những nét sâu đậm nhất của tư tưởng nhân đạo trong việc khẳng định, ngợi ca, trân trọng những khát vọng bình thường mà chính đáng của con người. Điều này được bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật qua diễn biến tâm trạng và hành động của họ trước việc Tràng nhặt vợ:

* Tình huống truyện đã cho thấy cái đói và cái chết không làm con người ta mất đi lòng nhân ái: thể hiện trong việc nhặt vợ của Tràng - chia sẻ miếng ăn với người xa lạ, đói khát; trong cách Tràng đối xử và suy nghĩ về người phụ nữ đi theo mình đầy yêu thương không hề rẻ rúng.

Đặc biệt là sự ứng xử và nỗi niềm của bà cụ Tứ với người con dâu. Chấp nhận người đàn bà xa lạ, coi là dâu là con, lo lắng, yêu thương, chia sẻ với người khác trong hoàn cảnh khốn cùng là biểu hiện cao nhất của tinh thần lá lành đùm lá rách.

* Tình huống truyện giúp người đọc nhận ra khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người không bị mất đi mà mãnh liệt hơn bao giờ hết: Tràng quyết định nhặt vợ sau một thoáng phân vân do dự, cảm giác mới mẻ hạnh phúc, trạng thái êm ái lửng lơ trong lòng Tràng sau khi có được vợ.

Khuôn mặt rạng rỡ chung vui của người dân xóm ngụ cư. Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh của bà cụ Tứ. Thị theo Tràng về nhà lúc đầu vì miếng ăn nhưng khi biết gia cảnh thực sự của Tràng, thị đã không hề chạy trốn mà ở lại và mang lại sinh khí cho gia đình đó, bản thân thị cũng trở lại hình ảnh một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, vợ hiền dâu thảo...

Tất cả là biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc mang tính bản năng, thường trực bị khuất lấp bởi cái đói đã xuất hiện một cách đầy bất ngờ. Chính khát vọng hạnh phúc lại mang đến cho họ sức mạnh vượt lên trên cái đói và cái chết.

* Tình huống truyện đã khẳng định đói, khát không làm con người mất đi hi vọng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp: Những câu nói đầy lạc quan của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ; Tràng mua hai hào dầu thắp sáng gian nhà trong đêm tân hôn nhưng cũng là sua tan bóng tối ngập đầy trong truyện ngắn; cảnh thu dọn nhà cửa vào sáng hôm sau... là những chi tiết cho thấy những người lao động đói khổ không bao giờ bị quan tuyệt vọng mà tràn đầy lạc quan tin tưởng để sống và yêu thương.

* Đặc biệt, hình ảnh là cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định chắc chắn những khát vọng bình thường mà chính đáng của con người trong tình huống bất thường không hão huyền, viển vông, là tín hiểu chắc chắn đã và sẽ hiện hữu.

+ Khái quát lại: Khẳng định ý kiến đã chỉ rõ những ý nghĩa sâu sắc của tình huống truyện.

- Kết bài:

“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người.

Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Gợi ý bài giải môn Ngữ văn THPT quốc gia 2016 từ báo Tuổi trẻ

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1: Những từ ngữ thể hiện sự mượt mà và tinh tế của Tiếng Việt trong khổ thơ thứ nhất là: như bùn, như lụa, óng tre ngà, mềm mại như tơ. (như bùn: là sự tinh tế; như lụa, óng tre ngà, mềm mại như tơ: là sự mượt mà).

Câu 2: Hai biện pháp tu từ được sử dụng: so sánh (nói nghe như hát, âm thanh như gió nước), ẩn dụ (lửa cháy).

Câu 3: Nội dung chính đoạn trích: Đoạn trích khẳng định tiếng Việt chính là tâm hồn của người Việt đồng thời thể hiện niềm tự hào về sự phong phú và khả năng diễn đạt tinh tế, nhiều nghĩa của tiếng Việt.

Câu 4: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng có thể tập trung vào các ý sau:

- Tiếng Việt rất phong phú.

- Tiếng Việt vừa mộc mạc, vừa tinh tế.

- Tiếng Việt có một lịch sử hình thành lâu đời.

- Mọi người cần có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Phạm Quỳnh nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Câu 5: Phương thức biểu đạt chính: nghị luận/phương thức nghị luận.

Câu 6: Vẻ bề ngoài đẹp đẽ của câu “cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa nhà mình” được thể hiện rõ nhất qua hình ảnh so sánh: như một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, đầy hoa thơm, sạch sẽ và gọn gàng.

Câu 7: Tác giả cho rằng: “Số phận của những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi bản thân, chẳng có gì đáng thèm muốn” vì nó giống như một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, nhưng hễ có một cơn dông tố nổi lên là cây cối sẽ bị bật khỏi đất, hoa sẽ nát và mảnh vườn sẽ xấu xí hơn bất kì một nơi hoang dại nào. Đó là thứ hạnh phúc mỏng manh. Con người cần được thử thách bởi bão táp thì mới khẳng định được bản thân.

Câu 8: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng tập trung vào các ý sau:

- Con người có thể gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, thử thách.

- Con người có thể bị bão táp của cuộc sống cuốn đi.

- Con người có thể đầu hàng, buông xuôi trước số phận.

- Tuy nhiên, con người cũng có thể từ những khó khăn, trở ngại, nguy hiểm mà trưởng thành và khẳng định bản thân để gặt hái những thành công trong cuộc đời.

II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (3,0 điểm) Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình, còn dũng khí lại giúp họ được là chính mình.

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) bàn luận về ý kiến trên.

Yêu cầu chung

- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải kết hợp được  những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ quan điểm riêng của mình để làm bài.

Trong đó, đặc biệt lưu ý đến việc thể hiện bố cục hoàn chỉnh của một bài văn nghị luận (có đủ mở bài, thân bài, kết bài; thân bài phải bao gồm nhiều đoạn văn), cách hành văn, chính xác và sinh động. Đồng thời phải đáp ứng đúng và đầy đủ yêu cầu về luận đề và nội dung.

- Thí sinh có thể triển khai vấn đề theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ quan điểm của mình, nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và luật pháp.

Yêu cầu cụ thể

1. Mở bài: Sự hèn nhát và dũng khí là những hiện tượng mà chúng ta thường gặp hằng ngày cũng như trong lịch sử và phim ảnh. Giáo dục công dân cũng dạy chúng ta rằng nên khinh bỉ sự hèn nhát và trân trọng dũng khí. Sự hèn nhát và dũng khí dẫn đến một hệ lụy và kết quả vô cùng quan trọng.

Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng “Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình, còn dũng khí lại giúp họ được là chính mình”. Sau đây chúng ta hãy bàn luận về ý kiến trên.

2. Giải thích ý kiến

Thí sinh cần giải thích thế nào là sự hèn nhát và dũng khí. Thí sinh phải giải thích thế nào là sự đánh mất mình và thế nào là được chính mình.

3. Bàn luận

Từ đó xác định ý kiến được nêu trong đề có nội dung khẳng định vai trò quan trọng của việc tránh sự hèn nhát và việc nên rèn luyện, nuôi dưỡng dũng khí.

Thí sinh có thể mở rộng sự bàn luận ra các hướng khác nhau; dưới đây là những ý tham khảo (không nhất thiết thí sinh phải làm giống những ý này):

- Sự hèn nhát được thể hiện ở những hành động: chạy trốn sự khó khăn, không dám đấu tranh với cái xấu, cái ác, không dám bảo vệ chính nghĩa và cái đúng, đùn đẩy những nguy hiểm cho bạn bè, người thân và đồng loại.

- Sự hèn nhát sẽ dẫn đến hậu quả khiến người ta đánh mất chính mình, đánh mất bản chất tốt đẹp của con người, đánh mất những ước mơ, những hoài bão, những hy vọng mà bản thân từng ấp ủ. Hèn nhát còn khiến người ta trở nên tha hóa. Thậm chí, còn có thể trở nên kẻ phản bội.

- Sự hèn nhát đã bị xã hội lên án và khinh bỉ. Có câu: “thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Tuy nhiên cũng có quan điểm: “thà sống nhục còn hơn chết vinh” bởi vì chết thì còn biết gì nữa mà vinh. Để đả phá quan điểm đó, mỗi dân tộc đều có nhiều hình thức để tôn vinh những người dũng cảm hy sinh vì đất nước, vì nhân dân.

- Trái ngược với sự hèn nhát, người có dũng khí dám đương đầu với khó khăn, thử thách, hiểm nguy; dám bảo vệ chân lý, chính nghĩa; dám đấu tranh chống lại điều ác, điều xấu bằng chính mạng sống, cuộc sống của chính mình.

- Dũng khí giúp người ta tìm lại được chính mình. Tức là tìm lại được, giữ được bản chất tốt đẹp của bản thân, giữ được ước mơ, hoài bão, hy vọng giữa những giông tố của cuộc sống và giúp người ta dành lấy sự thành công, chiến thắng.

- Dũng khí là một nét đẹp của loài người, của dân tộc nói chung và của từng cá nhân nói riêng. Dũng khí của nhiều cá nhân hợp thành nguyên khí của một quốc gia. Chính cái nguyên khí đó đã giúp cho một dân tộc khỏi sự diệt vong, được trường tồn cùng lịch sử.

Chính vì vậy, dũng khí và những người dũng cảm, sẵn sàng chấp nhận “không thành công thì thành nhân” luôn được sự ngưỡng mộ, ca ngợi của mọi người. Lịch sử của dân tộc ta nói riêng và nhiều dân tộc khác trên thế giới nói chung đã chứng minh cho điều đó.

- Tuy nhiên, sự hèn nhát hoàn toàn khác với thái độ trầm tĩnh, cẩn thận, đắn đo, suy nghĩ thấu đáo và dũng khí cũng hoàn toàn khác với thái độ nóng nảy, hấp tấp, ồn ào, khoa trương theo kiểu anh hùng rơm. Có những sự can đảm không cần thiết mà người đời gọi là sự liều lĩnh và dại dột. Chẳng hạn như đua xe với tốc độ cao…

- Để trầm tĩnh chứ không hèn nhát, dũng cảm mà không liều lĩnh, người ta cần phải có sự hiểu biết về bản thân, về xã hội, về cuộc đời; phải có niềm tin vào lẽ phải, lý tưởng sống.

- Đối với lứa tuổi học sinh cần phải có dũng khí từ bỏ con đường sai trái như chọn lầm ngành học để bắt đầu lại từ đầu. Phải có dũng khí đứng lên làm lại từ đầu sau những vấp ngã và thất bại nặng nề. Tình nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự và sẵn sàng ra chiến trường khi tổ quốc lâm nguy.

Câu 2 (4,0 điểm)

Yêu cầu chung:

- Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, bình luận ý kiến : Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người.

- Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng.

Yêu cầu cụ thể:

Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt và ý kiến được nêu trong đề; thông báo được hướng giải quyết vấn đề.

Thân bài:

1. Tóm tắt thật ngắn gọn tác phẩm Vợ nhặt, nhấn mạnh được tình huống độc đáo của truyện.

2. Giải thích ý kiến:

- Tình huống bất thường: có thể xem là một sự việc diễn ra trong một hoàn cảnh cụ thể nhưng không thường xuyên xuất hiện trong đời sống.

- Khát vọng bình thường mà chính đáng: những mơ ước, mong muốn và dễ dàng đạt được. Đó là  cái mọi người đều hướng tới.

- Ý nghĩa câu nói: ca ngợi tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc xây dựng được một tình huống truyện độc đáo: xây dựng cái bất thường trong cái bình thường.

3. Phân tích tình huống truyện:

a. Tình huống truyện bất thường, độc đáo vì tạo ra sự ngạc nhiên cho mọi người:

- Xóm ngụ cư ngạc nhiên trước việc Tràng có vợ.

- Bà cụ Tứ ngạc nhiên khi biết con trai có vợ.

- Bản thân anh Tràng cũng ngạc nhiên vì mình có vợ quá dễ dàng.

b. Tình huống truyện bất thường, độc đáo vì là tình huống éo le:

- Cùng một lúc với niềm vui là nỗi lo âu vì hạnh phúc có thể đánh đổi bằng cái chết.

- Xóm ngụ cư ai cũng lo âu cho hạnh phúc bấp bênh sắp tới của vợ chồng Tràng.

- Bà cụ Tứ cũng thể hiện nỗi lo âu kéo dài và ám ảnh, nghẹn ngào dàn dụa nước mắt.

- Chính Tràng cũng chợn và lo lắng cho tương lai của mình.

- Người “vợ nhặt” có chồng trong tâm trạng lo lắng, phấp phỏng, chua xót vì chỉ là “vợ nhặt, vợ theo, cái của nợ đời”.

c. Tình huống mang tính nhân văn (nói lên khát vọng bình thường và chính đáng của con người):

- Việc Tràng có vợ vừa tình cờ, ngẫu nhiên vừa có gì đó như là tất yếu, phải như thế và không thể khác được.

- Xóm ngụ cư le lói một niềm vui, thấp thoáng một sức sống.

- Khuôn mặt bủng beo của bà cụ Tứ bỗng nhiên rạng rỡ hẳn lên vì niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai của mình và các con.

- Chính Tràng cũng thấy bản thân thay đổi nhờ việc có vợ: anh cảm thấy hạnh phúc, thấy có trách nhiệm với gia đình.

- Người vợ nhặt: cảm giác rõ ràng mình đã bước ra khỏi cái chết để hướng về một tương lai tươi sáng.

4. Bình luận ý kiến trên:

- Ý kiến tập trung vào sự trái ngược giữa hai từ ngữ “bất thường” và “bình thường”. Hai từ tuy có ý nghĩa  trái ngược nhưng không loại trừ nhau, mà bổ sung ý nghĩa cho nhau để làm nổi bật tài năng của nhà văn Kim Lân. Sự bình thường và bất thường là một quy luật tất yếu và là cặp anh em song sinh không thể tách rời trong cuộc sống.

- Ý kiến này cũng giúp người đọc cảm nhận rõ sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn với những số phận bất hạnh trong nạn đói năm 1945, bởi chính Kim Lân cũng từng phải ăn cám trong năm đói đó. Qua đó, người đọc hiểu được cảm quan nhân đạo mà Kim Lân gửi gắm qua tác phẩm.

- Ý kiến này càng làm rõ được tài năng lựa chọn tình tiết, tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật và đặc biệt là đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo.

Kết bài:

- Khẳng định ý kiến trên là đúng đắn, vừa đánh giá được tài năng của Kim Lân vừa làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.

- Khẳng định sức sống mạnh mẽ và trường tồn của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam.

Xem thêm:

Tổng hợp