Giáo viên lớp 1 vốn đã vất vả hơn các khối lớp tiểu học khác, nay lại phải dạy theo chương trình sách giáo khoa mới. Nhưng nhờ đó, các thầy cô có cơ hội khẳng định tình yêu nghề và vai trò của mình.

> Điều gì khiến nhiều thầy cô yêu và gắn bó với nghề nhà giáo?

> 'Nhân dân quan tâm giáo dục là thuận lợi nhưng cũng áp lực'

Học sinh lớp 1 bây giờ khác xưa rất nhiều

Cô Nguyễn Thị Minh Hạnh, Trường phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội), đã dạy lớp 1 suốt 15 năm qua, tâm sự: “Việc dạy lớp 1 như là cái duyên vậy. Không hiểu sao, mình thường xuyên được phân công dạy lớp 1 nhưng vẫn thấy nhiều thử thách. Cái khó ở đây là chuyển học sinh từ vui chơi là chủ đạo sang việc học tập. Giáo viên sẽ đặt những viên gạch đầu tiên trong hành trình học tập cả đời của học sinh, nếu không cẩn thận sẽ làm các con mất hứng thú với việc khám phá tri thức và đóng lại mọi lối đi với việc học tập”.

Cô Hạnh nhận thấy học sinh bây giờ khác xưa rất nhiều, điều đó cũng đặt ra thách thức mới cho giáo viên về phương pháp làm việc cũng như giáo án để nuôi dưỡng được trí tò mò của các con.

Theo cô Hạnh, 3 điều cần với giáo viên dạy lớp 1 là kiên trì, luôn duy trì được cảm xúc tích cực và học tập không ngừng.

giáo viên lớp 1

Cô Nguyễn Thị Minh Hạnh cho rằng, giáo viên dạy lớp 1 cần 3 điều là kiên trì, luôn duy trì được cảm xúc tích cực và học tập không ngừng

Phải kết hợp vừa dạy vừa dỗ trẻ

Kiên trì là phẩm chất bất cứ giáo viên nào cũng nhắc tới khi dạy lớp 1. Năm học này, dạy lớp 1 càng khó bởi trẻ mầm non 5 tuổi không được đến trường. giáo viên cũng không có tuần đệm để rèn luyện học sinh lớp 1 như các năm trước. Trò chuyện với giáo viên lớp 1 nào, phóng viên cũng đều được cho biết “phải vừa dạy vừa dỗ”, nhất là những ngày đầu năm học mới.

"Để dạy tốt, điều mình cho là quan trọng hơn cả, đó là tình yêu thương của giáo viên dành cho học sinh chứ không phải là công cụ hỗ trợ nào." - Cô Nguyễn Thị Minh Hạnh, Trường phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội)

Ví dụ, đang giờ học, các con liên tục “thưa cô”: “bạn A lườm con”, “bạn B trêu con”, “bạn C bảo con béo phì”... Chưa kể, các con liên tục xin đi vệ sinh vì có thể ngồi mãi một chỗ buồn bực. Nhiều khi một em trong lớp đi là cả lớp xin ra ngoài vệ sinh. Có em đi lâu chưa thấy quay lại là giáo viên phải đi tìm, đề phòng các em cần trợ giúp; có em đi lạc, không nhớ lớp mình là lớp nào để về... là những chuyện thường xuyên với học sinh lớp 1.

Học sinh lớp 1 cũng là năm đầu tiên bước vào giai đoạn phổ thông nên cả gia đình quan tâm đặc biệt, nhất là ở khu vực thành thị. Thế nên, chỉ cần con đọc chậm, viết chữ chưa đẹp là bố mẹ lại hoảng hốt, vô tình gây áp lực lên giáo viên. Do vậy, hết giờ lên lớp về nhà, giáo viên còn phải trả lời vô số câu hỏi, thắc mắc, đôi khi là giận dữ của phụ huynh học sinh khi con mình gặp phải một vấn đề nào đó. Nếu không nhẫn nại thì chắc chắn giáo viên lớp 1 khó đứng vững.

Chính vì vậy, theo cô Hạnh, ngoài dạy dỗ học sinh, cô còn phải tương tác với phụ huynh. Giáo viên cần cung cấp đầy đủ cho các gia đình về quan điểm giáo dục của nhà trường cũng như những giải pháp mà học sinh đang cần để tìm kiếm sự đồng thuận từ phụ huynh.

Luôn bày trò vì học sinh nhanh chán

Quen nếp sinh hoạt của trẻ mầm non, học sinh mới vào lớp 1 rất khó có thể quen ngay với việc ngồi học một mạch trong 1 tiết học rồi mới được ra chơi. Nếu phải ngồi im lặng hoặc chỉ nghe cô giảng rồi đọc, viết, làm bài... các em rất dễ khủng hoảng tâm lý, chán học, sợ học. Do vậy, giáo viên phải nghĩ ra các phương pháp dạy học để tạo sự hào hứng, tùy từng đối tượng học sinh và điều kiện dạy học.

Cô Bàn Thị Hương, giáo viên lớp 1 Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học - THCS Đồng Lâm 2 (Quảng Ninh), cho hay 100% học sinh ở đây là người dân tộc Dao. Các em thường rụt rè, nhút nhát, ít thể hiện bản thân. Thời gian đầu, cô trò lớp 1 của trường khá vất vả để dạy - học ghép vần, tập đọc. Tuy nhiên, sau 2 tháng, với việc chủ động, linh hoạt áp dụng các phương pháp giáo dục tích cực, phân loại học sinh để kèm cặp, học sinh lớp cô Hương đã giảm tình trạng “học trước quên sau”, 50% học sinh có thể đọc trơn tru. Ví dụ, cô giáo chiếu lên màn hình hình ảnh một số loài vật. Tương ứng với mỗi vần mà học sinh vừa được học, cô “đố” trò tìm được con vật nào mà tên gọi có chứa vần đó. Phía dưới lớp, hàng loạt cánh tay học sinh giơ lên. Nhiều em còn đứng hẳn dậy giơ tay để cô chú ý và gọi lên bảng giải đố.

Tương tự, thay vì cho học sinh quan sát sách giáo khoa rồi tự điền đáp án vào vở bài tập, giờ ôn tập môn toán, cô giáo Lê Thị Thảo, lớp 1A6 Trường tiểu học An Lư (H.Thủy Nguyên, Hải Phòng), tổ chức cho lớp chơi trò chơi. Cô đưa ra câu hỏi rồi gọi một học sinh lên bảng tìm đáp án đúng trong các hình được chiếu trên bảng điện tử. học sinh trả lời xong, thay vì giáo viên nhận xét, tự em sẽ mời các bạn nhận xét đáp án của mình. Cứ thế, tiết học trôi qua trong không khí sôi nổi, hào hứng của những “nhân vật chính”. Cách dạy học như vậy, học sinh được nói, được làm nhiều hơn, không thấy việc học là đáng sợ.

Cô Hạnh cũng cho rằng ngày xưa, ngữ liệu hỗ trợ giảng dạy còn hạn chế. Bây giờ với sự phát triển của công nghệ, giáo viên có thêm rất nhiều công cụ như clip kể chuyện, trò chơi tương tác online, những bài hát... Do đó, giáo viên cần phải học tập để làm chủ công nghệ, vừa giúp học sinh hứng thú với bài học, vừa giúp mình đỡ vất vả hơn và giúp quá trình tương tác, phối hợp giữa giáo viên và từng phụ huynh dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, cô Hạnh cũng cảnh báo: Công nghệ chỉ để hỗ trợ chứ chưa thể thay thế được người thầy. Bởi vì học tập là một quá trình tương tác giữa con người với con người, máy móc không làm được việc ấy. “Để dạy tốt, điều mình cho là quan trọng hơn cả, đó là tình yêu thương của giáo viên dành cho học sinh chứ không phải là công cụ hỗ trợ nào”, cô Hạnh chia sẻ.

Theo Thanh Niên