>> Giáo dục, tuyển sinh, thông tin tuyển sinh, tin giáo dục
Đánh giá học sinh bằng video game
Học tập thú vị
Cô bé Serena Lee, 14 tuổi, đang chơi một video game do các nhà nghiên cứu của trường ĐH Wisconsin-Madison phát triển |
Cả thập kỷ nay, những người đề xướng cho rằng video game là công cụ học tập mạnh mẽ vì tính phổ biến và khả năng đưa người chơi vào các hoạt động giải quyết vấn đề. Gần đây, James Paul Gee - Cha đẻ của học thuyết video game, đồng sáng lập trung tâm Games + Learning + Society - đã cho rằng chơi thành công các video game có thể đưa ra bằng chứng cho thấy HS đã làm chủ được các nội dung cần học tập.
Xây dựng kỹ năng
Nhà thần kinh học Davidson cho biết việc phát triển khả năng đọc ám hiệu phi lời nói của người khác là điểm cốt yếu để xử lý nhiều tình huống xã hội. Đồng thời khả năng tập trung trí óc – kỹ năng trọng tâm của trò chơi Tenacity – thậm chí còn quan trọng hơn.
Trong một cuốn sách có ảnh hưởng tới ông về sự thành công của trẻ em có tên How Children Succeed: Grit, Resilience, and the Hidden Power of Character, tác giả Paul Tough nói trẻ em thể hiện sự thiếu kiểm soát sau này thường kiếm tiền ít hơn bạn bè, dễ bị yếu đuối về thân thể, dễ bị lạm dụng và phạm tội cho dù có trí thông minh thế nào hoặc ở tầng lớp xã hội nào.
Ông Davidson cho biết các nghiên cứu về khoa học thần kinh thể hiện các phần của não điều tiết tầm quan trọng của các kỹ năng nhận thức có thể được thay đổi thông qua rèn luyện, trải nghiệm – đồng thời có thể thông qua các video game.
Áp dụng vào thực tế
Trước khi việc đánh giá nhận thức dựa vào video game được áp dụng rộng rãi, giáo sư về đánh giá giáo dục tại ĐH North Carolina (Mỹ), sẽ có tranh luận “liệu có thích hợp để đo lường một số thứ nhất định ở trẻ em hay không, ai nên thực hiện sự đo lường này và những kỹ năng đó sẽ đóng vai trò thế nào trong việc xác định thành công của trẻ em?”
“Trò chơi là một phương tiện mạnh mẽ để thay đổi não bộ theo một số cách nhất định” – Ông Davidson nói – Nếu chúng ta có thể can thiệp bọn trẻ, thực sự tăng cường được những xung điện trong não có lợi cho cuộc sống, tôi cho rằng xã hội chúng ta có bổn phận để thử điều này”.
(Theo Education week)